Trong bối cảnh biến đổi khí hậu hiện nay, năng lượng gió đang được xem là giải pháp quan trọng để giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch và thúc đẩy nền kinh tế không carbon. Việc chuyển đổi sang năng lượng tái tạo là mục tiêu cần thiết để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững theo kế hoạch của Liên hợp quốc đến năm 2030.
Theo Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), Tư vấn Quốc tế và Viện Năng lượng (Bộ Công Thương) về "Phát triển các giải pháp cuối vòng đời cho điện mặt trời và điện gió tại Việt Nam", việc xử lý chất thải từ cánh tua bin gió khi hết thời hạn sử dụng là một vấn đề cần quan tâm.
Việc phát triển ngành công nghiệp điện gió ở Việt Nam có tiềm năng rất lớn, đặc biệt là điện gió ngoài khơi. Mục tiêu phát triển này góp phần giảm thiểu lượng carbon từ nhiệt điện và tạo nền móng cho sự phát triển dài hạn của nền kinh tế.
Tuy nhiên, việc phát triển điện gió cũng đồng nghĩa với việc phải đối mặt với chất thải từ cánh tua bin gió khi chúng hết thời hạn sử dụng. Theo nghiên cứu, dự kiến sẽ có khoảng 19,3 nghìn tấn vật liệu từ cánh tua bin gió thải bỏ cuối vòng đời dự án vào năm 2030. Điều này đòi hỏi việc phải xử lý và tái chế chúng một cách hiệu quả và an toàn cho môi trường.
Để giải quyết vấn đề này, các quy định quốc tế về quản lý chất thải từ dự án điện gió cần được thực hiện. Đối với các dự án điện gió, cần có quy định cụ thể về việc tháo dỡ các cánh tua bin gió và tái chế chúng. Ngoài ra, việc bảo lãnh tài chính nhằm đảm bảo việc tháo dỡ và khôi phục mặt bằng sau khi dự án hoàn thành cũng là một yếu tố quan trọng.
Công nghệ tái chế các cánh tua bin gió đang trong giai đoạn phát triển. Tuy vậy, việc đồng xử lý chất thải từ cánh tua bin gió trong nhà máy xi măng đã được xem là một lựa chọn khả thi và thương mại. Việc này không chỉ giảm lượng khí thải carbon của ngành xi măng mà còn giải quyết vấn đề chất thải từ cánh tua bin gió một cách hiệu quả.
Có thể thấy việc xử lý chất thải từ cánh tua bin gió khi hết thời hạn sử dụng là một vấn đề cần quan tâm trong quá trình phát triển ngành công nghiệp điện gió ở Việt Nam. Quy định cụ thể, công nghệ tái chế và bảo lãnh tài chính đều cần được áp dụng để đảm bảo rằng ngành điện gió phát triển bền vững và thân thiện với môi trường.
Theo Quy hoạch điện VIII, ngành công nghiệp điện gió sẽ có sự phát triển mạnh mẽ. Dự kiến đến năm 2050, tổng công suất điện gió sẽ dao động từ 130.050 đến 168.550 MW, chiếm tỷ trọng từ 26,5% đến 29,4% trong cơ cấu công suất nguồn điện của hệ thống. Tuổi thọ trung bình của các dự án năng lượng tái tạo là từ 20 đến 30 năm, do đó lượng chất thải phát sinh trong vài năm tới dự kiến sẽ rất ít.
Tuy nhiên, theo kịch bản tổn thất bình thường dự kiến sẽ có khoảng 19,3 nghìn tấn vật liệu tua bin gió thải bỏ vào cuối vòng đời dự án và trong kịch bản tổn thất sớm sẽ có khoảng 66,9 nghìn tấn vật liệu tua bin gió thải bỏ vào năm 2030 tại Việt Nam.
Những chất thải từ cánh tua bin gió được xem xét theo quy định về chất thải thông thường, tuy nhiên chúng khá khó xử lý do tính chất phức tạp, khối lượng lớn và khó tái chế do được sản xuất từ vật liệu sợi tổng hợp. Việc đồng xử lý chúng trong lò nung xi măng được xem là một hướng giải quyết tiềm năng tại Việt Nam.
Quá trình tháo dỡ cánh tua bin gió khá phức tạp, do chúng được gắn trên cột có độ cao hàng trăm mét so với mặt đất hoặc mực nước biển. Vì vậy, cần có các quy định chặt chẽ liên quan đến việc bảo lãnh tài chính, và tăng thêm trách nhiệm của nhà sản xuất đối với cánh tua bin gió, cam kết tái chế chất lượng cao và đảm bảo việc tiêu hủy an toàn.
Quy hoạch phát triển nguồn điện gió tại Việt Nam rất lớn đặc biệt là trong lĩnh vực điện gió ngoài khơi. Khi các dự án kết thúc vòng đời việc quản lý hàng nghìn tấn vật liệu tua bin gió thải bỏ không cần phức tạp và có thể đảm bảo an toàn cho môi trường. Do đó việc phát triển ngành công nghiệp điện gió đặc biệt là điện gió ngoài khơi là một hướng đi chính xác. Hướng này tận dụng tối đa tiềm năng nguồn gió phong phú để đảm bảo an ninh năng lượng, giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu và đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phù hợp với Nghị quyết số 55 của Ban Chấp hành Trung ương về Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia Việt Nam đến năm 2030, với tầm nhìn đến năm 2045.
“Quy định quốc tế về chất thải từ dự án điện gió:
Đối với các dự án điện gió đòi hỏi phải có các quy định cụ thể về tháo dỡ các cánh tua bin gió, bởi kích thước của chúng lớn và vị trí tua bin được lắp đặt ở độ cao hàng trăm mét so với mặt đất, hoặc mực nước biển.
Mặt khác, so với các tấm quang điện, thành phần tháo dỡ từ tua bin gió đã có dây chuyền tái chế và không yêu cầu thêm về các kỹ thuật tách lớp. Hiện tại trên thế giới chưa có chính sách cụ thể nào trong việc quản lý chất thải của các tuabin gió.
Tuy nhiên, ở các quốc gia khác nhau đã có các tiêu chuẩn và hướng dẫn cụ thể về ngừng vận hành, tháo dỡ và khôi phục địa điểm của các dự án điện gió. Hầu hết các quy định ngừng vận hành đối với tua bin gió được đề cập thông qua các chính sách quản lý chất thải khác nhau. Cụ thể là chính sách quản lý chất thải phá dỡ và xây dựng, quản lý chất thải kim loại, quản lý chất thải điện tử tương ứng với nhiều loại chất thải khác nhau, phát sinh từ các tua bin gió được cấu thành từ nhiều loại vật liệu khác nhau như bê tông, kim loại, cáp điện.
Hiện trạng công nghệ tái chế cánh tua bin gió trên thế giới:
Các công nghệ tái chế cho cánh tua bin gió vẫn đang trong giai đoạn phát triển ở nhiều cấp độ công nghệ khác nhau. Cánh làm từ vật liệu tổng hợp nên rất khó tái chế. Đồng xử lý chất thải trong nhà máy xi măng (sợi thủy tinh được tái chế như một thành phần trong hỗn hợp xi măng), nghiền cơ học (thường được sử dụng do hiệu quả, chi phí thấp, yêu cầu năng lượng thấp), nhiệt phân (cho phép thu hồi sợi ở dạng tro, ma trận polyme ở dạng các sản phẩm hydrocacbon) có mức độ trưởng thành cao hơn, gần mức độ thương mại hóa hơn so với các quy trình công nghệ phân mảnh bằng xung điện cao áp và công nghệ tầng sôi.
Đồng xử lý các cánh quạt tua bin gió tại các nhà máy xi măng là một lựa chọn thương mại phù hợp nhất hiện nay và khả thi trong việc quản lý chất thải cuối vòng đời cánh tua bin gió ở nước ta, vì chúng ta có nền công nghiệp sản xuất xi măng đứng đầu khối ASEAN về sản lượng xi măng và đứng thứ 5 thế giới về sản xuất và tiêu thụ xi măng (với tổng công suất thiết kế khoảng 100 triệu tấn/năm). Ưu điểm của nó là không yêu cầu chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng riêng biệt, hiệu quả cao, tốc độ và có khả năng mở rộng so với các công nghệ sẵn có khác. Sợi thủy tinh có trong cánh tua bin gió thải bỏ được tái chế như một thành phần của hỗn hợp xi măng (clinker), trong khi hỗn hợp polyme được đốt cháy như nhiên liệu cho quá trình sản xuất (còn gọi là nhiên liệu có nguồn gốc từ rác thải), giảm lượng khí thải carbon trong quá trình sản xuất xi măng. Việc đồng xử lý trong nhà máy xi măng làm giảm 16% lượng khí thải carbon của ngành xi măng.
Các ưu điểm khác của đồng xử lý quá trình sản xuất xi măng là hiệu quả cao, nhanh chóng và có khả năng mở rộng. Một lượng lớn chất thải có thể được xử lý bằng công nghệ này. Điều này dẫn đến việc tăng nhẹ hiệu quả năng lượng của sản xuất xi măng, do đó giúp ngành công nghiệp xi măng giảm phát thải khí nhà kính. Cũng cần lưu ý rằng, công nghệ này không phát sinh tro sau quá trình xử lý.”
Tham khảo Năng lượng Việt Nam
- Viện Nghiên cứu Cơ khí đề nghị xây dựng chương trình nghiên cứu phát triển thiết kế chế...
- Việt Nam: Mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu
- Vấn đề cần quan tâm: Vận chuyển hàng hóa bằng đường sắt
- Nội địa hóa chuỗi cung ứng trong ngành điện gió Việt Nam: Cơ hội, thách thức và định...
- Tận dụng lợi thế của SBIC để tham gia vào các dự án đường sắt Việt Nam: Kinh nghiệm quốc...
- SBIC: Giá trị sản phẩm tỷ đô nhưng doanh thu khiêm tốn vì rào cản tài chính
- Giảm phát thải trong ngành cơ khí
- Vực dậy ngành công nghiệp tàu thuỷ: Thực trạng và thách thức
- Doanh nghiệp cơ khí lên tiếng trước đề xuất áp thuế chống bán phá giá thép cán nóng nhập...
- Phí ô tô, xe máy gây ô nhiễm có thể làm sạch không khí không? Bài học nào từ London?